Cập nhật lúc 2025-02-12 08:55:41

Cổng thông tin Điện tử ĐHQGHN trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của GS.TS Lê Quân, Giám đốc ĐHQGHN đăng trên báo Nhân dân số ra ngày 12/2/2025. Sự ra đời của Nghị quyết 57/NQ-TW và Nghị quyết 03/NQ-CP đã tạo ra một luồng sinh khí mới: sinh khí của đổi mới sáng tạo (ĐMST), sinh khí của khoa học công nghệ (KHCN), là động lực vô cùng ý nghĩa để cộng đồng các nhà khoa học (NKH) sẵn sàng bước vào kỉ nguyên vươn mình của dân tộc. Tuy nhiên, để vượt qua hàng loạt các rào cản, vuớng mắc, vốn đã tồn tại nhiều năm, cản trở sự phát triển của KHCN, nếu không muốn nói là triệt tiêu sức sáng tạo của NKH, để bước vào một kỷ nguyên mới, cần nhìn nhận một cách thắng thắn, khách quan những thách thức cố hữu đó, từ đó, nghiên cứu, đề xuất các giải pháp đột phá để phát triển KHCN & ĐMST, mà trọng tâm là cơ chế đột phá về tài chính. Đó chính là nội dung cơ bản mà tác giả tập trung phân tích trong bài viết này.
Phòng thí nghiệm của ĐHQGHN
1. Thực trạng cơ chế tài chính hiện nay và những thách thức
Hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH, CN và ĐMST) hiện nay được điều chỉnh bởi nhiều luật chuyên ngành như Luật khoa học và công nghệ (2013), Luật chuyển giao công nghệ (2017, sửa đổi bổ sung năm 2023), Luật sở hữu trí tuệ (2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 và 2022), Luật doanh nghiệp (2020), Luật đầu tư (2020, sửa đổi bổ sung năm 2022), Luật ngân sách nhà nước (2015, sửa đổi bổ sung năm 2020), Luật Kế toán (2015, sửa đổi bổ sung năm 2024), Luật phòng chống tham nhũng (2018),… và các văn bản hướng dẫn dưới luật có liên quan. Cơ chế tài chính cho hoạt động KH, CN và ĐMST vì vậy cũng được quy định trong rất nhiều văn bản pháp luật, tạo ra tình trạng “khá rối rắm”, chồng chéo, khó thực hiện trong thực tiễn.
Về cơ bản, các vấn đề KH, CN và ĐMST được xây dựng và triển khai dưới hình thức nhiệm vụ KH&CN. Vì vậy, cơ chế tài chính KH, CN và ĐMST được xét đến ở các khía cạnh: Đầu tư (cấp phát tài chính); triển khai thực hiện; kiểm tra giám sát việc thực hiện; đánh giá kết thúc việc đầu tư triển khai thực hiện. Phần tiếp theo xin trao đổi một số hiện trạng và thách thức đối với cơ chế tài chính này.
a) Về đầu tư cho KH, CN và ĐMST
- Đầu tư cho KH, CN và ĐMST còn bị phân mảnh rất lớn, thiếu tính ổn định: Việc đầu tư cho KH, CN và ĐMST thông qua các chương trình, đề tài KH&CN với những mục tiêu rất khác nhau, đặt ở nhiều cơ quan trung ương và địa phương khác nhau. Vì thế, sự đầu tư cho mỗi chương trình, đề tài KH&CN không lớn và không duy trì được trong dài hạn. Nói riêng như mỗi Chương trình KHCN quốc gia cũng có thời gian từ 5 đến 10 năm, mỗi nhiệm vụ thuộc các chương trình cũng chỉ 2 đến 3 năm và lượng kinh phí phê duyệt cho từng nhiệm vụ không đủ lớn để tạo ra các sản phẩm KHCN có tính dài hạn, xâu chuỗi, mà chủ yếu theo các nhánh nhỏ, mang tính “manh mún”.
- Chưa có cơ chế thu hút hiệu quả đầu tư xã hội (ngoài ngân sách nhà nước) cho hoạt động KH, CN và ĐMST. Bên cạnh những khó khăn thuộc về tài chính như việc bắt buộc định giá tài sản trí tuệ trước khi đưa vào thương mại hóa… thì còn nhiều rào cản “phi tài chính”, chẳng hạn như tổ chức KH&CN công lập rất khó sử dụng tài sản công do mình quản lý để đối ứng cho các dự án chung với đối tác tư nhân, viên chức không được tham gia quản lý doanh nghiệp ngoài nhà nước,…
⁃ Thiếu cơ chế đầu tư mạo hiểm hiệu quả nhằm đưa kết quả nghiên cứu từ quy mô phòng thí nghiệm, đến quy mô thực tế/hiện trường, và cao hơn là quy mô sản xuất đại trà. Các Quỹ đầu tư mạo hiểm dù được thành lập nhưng rất khó triển khai đầu tư do thiếu cơ chế hiệu quả.
b) Về triển khai thực hiện
- Do cơ chế quyết định đầu tư bị phân mảnh và nhỏ giọt, nhà khoa học và tổ chức chủ trì thường không có đủ kinh phí để triển khai các nghiên cứu có tính chất dài hạn, tập trung vào một hướng mà chủ yếu là “ăn đong” từng năm, vừa triển khai nghiên cứu vừa đi xin kinh phí hoặc chấp nhận chuyển hướng nghiên cứu để có kinh phí hoạt động (vì thế, rất khó tạo ra sản phẩm lớn cũng như các chuyên gia chuyên sâu am hiểu sâu sắc ở lĩnh vực cụ thể).
- Kinh phí sự nghiệp khoa học được cấp hàng năm, thường giai đoạn giữa năm mới được giải ngân, nhà khoa học chỉ có thời gian ngắn để nghiên cứu và làm hồ sơ thanh toán. Kinh phí không dùng hết (không kịp chi vì các thủ tục như đấu thầu, hóa đơn chứng từ,…) thì sẽ bị thu hồi theo quy định của Luật ngân sách nhà nước. Nhà khoa học có khi lo thủ tục giải ngân, chứng từ thanh quyết toán nhiều hơn việc triển khai nghiên cứu.
- Quy định về đấu thầu hoá chất, vật tư, công cụ dụng cụ trong quá trình triển khai nghiên cứu nhìn chung còn phức tạp: từ khi nộp thuyết minh, dự toán đến khi được phê duyệt khoảng 12 tháng, khi nhận được kinh phí để nghiên cứu mất 3-6 tháng, như vậy giá mua hoá chất đã khác, hóa chất nguyên vật liệu thậm chí không còn, từ đó dẫn đến nhà khoa học không đấu thầu được, không đủ kinh phí, không còn hoá chất để thí nghiệm.
c) Về kiểm tra giám sát việc thực hiện
- Kiểm tra việc thực hiện tài chính triển khai nhiệm vụ KH, CN và ĐMST còn nhiều thủ tục, đặc biệt là theo định kỳ (trong khi việc nghiên cứu chưa kết thúc) dẫn đến khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu về chứng từ thanh quyết toán, tạm ứng tài chính.
- Các đoàn thanh tra, kiểm toán chỉ căn cứ vào các quy định (theo phương pháp thanh tra/kiểm toán tuân thủ) mà chưa xem xét đến những yếu tố khách quan và độ trễ của các khâu phê duyệt, cấp, triển khai tài chính, từ đó các kết luận thường sẽ không thuận lợi cho việc triển khai nhiệm vụ KH, CN và ĐMST.
d) Về đánh giá kết thúc quá trình đầu tư triển khai thực hiện
- Không có cơ chế chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu (kết quả nghiên cứu không như dự kiến, giả thuyết nghiên chưa đúng, hướng nghiên cứu phải dừng giữa chừng,…), từ đó không có cơ chế chấp nhận kết quả nghiên cứu ở trạng thái chưa hoàn chỉnh (như yêu cầu đặt hàng), nghiệm thu được kết quả. Quá trình xử lý rất phức tạp, gây khó khăn cho cơ quan quản lý KH&CN, tâm lý không thoải mái cho nhà khoa học,…
- Do yêu cầu chấp hành luật ngân sách nhà nước (vì không chấp nhận rủi ro trong KH, CN và ĐMST), các nhiệm vụ không được gia hạn thời gian thực hiện đủ lớn (dù cần thiết để đạt được kết quả), như vậy vừa lãng phí, vừa gây ra những hệ quả xấu trong việc xử lý kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN.
2. Đề xuất giải pháp về đổi mới cơ chế tài chính
Trên cơ sở những đánh giá về thực trạng và những thách thức như trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp về đổi mới cơ chế tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động KH, CN và ĐMST. Cụ thể như sau:
- Thiết lập cơ chế đầu tư KH, CN và ĐMST theo hướng dài hạn, hạn chế phân mảnh, nhỏ giọt. Cụ thể như đầu tư cho các nhiệm vụ KH&CN từ 3 đến 5 năm theo chu kỳ/vòng đời nghiên cứu; chỉ thanh quyết toán 01 lần đối với mỗi nhiệm vụ - như cơ chế đầu tư đối với dự án đầu tư - có tính đến rủi ro, đầu tư dài hạn, giải ngân theo giai đoạn nghiên cứu, thanh quyết toán khi kết thúc dự án.
- Đẩy mạnh cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của tổ chức chủ trì và nhà khoa học: Thực hiện cơ chế tự báo cáo về chuyên môn và tài chính theo định kỳ của tổ chức chủ trì và nhà khoa học (cơ quan quản lý chỉ hậu kiểm khi cần thiết); cho phép linh hoạt trong sử dụng nguồn tài chính để triển khai thực hiện nhiệm vụ (có thể tự ứng trước, vay mượn để thực hiện trước khi được cấp từ cơ quan quản lý); bớt các khâu kiểm tra trung gian và chỉ đánh giá dựa vào kết quả cuối cùng.
- Thực hiện mạnh mẽ và đồng bộ cơ chế Quỹ trong đầu tư cho nhiệm vụ KH, CN và ĐMST. Như vậy cần hình thành nhiều Quỹ đầu tư KH&CN theo các hướng khác nhau, phục vụ các mục tiêu khác nhau như hướng nghiên cứu mới tiên phong; huớng nghiên cứu kế thừa, làm chủ công nghệ; hướng nghiên cứu tạo ra sản phẩm, mang tính ứng dụng; hướng nghiên cứu tư vấn chính sách, tư vấn chiến lược quốc gia,…
- Thúc đẩy cơ chế để có thể tăng cường đầu tư xã hội hóa vào KH, CN và ĐMST như:
+) Hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm theo hình thức hợp tác công tư (PPP): Trong mô hình này, nhà nước đầu tư vốn mồi để nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Kết thúc giai đoạn này, các quỹ đầu tư mạo hiểm và khối tư nhân có vai trò quan trọng, tham gia đầu tư giai đoạn tiếp theo, cho đến khi ra được sản phẩm cuối cùng, như vậy sẽ giảm rủi ro cho nhà nước, tăng vai trò và sự quan tâm của khu vực tư, thúc đẩy chuyển giao, thương mại hóa. Muốn vậy, cần sửa đổi các quy định về định giá tài sản trí tuệ (cho phép tổ chức chủ trì tự định giá và miễn trừ trách nhiệm hình sự, hành chính); quy định về quản lý cán bộ, viên chức,…
+) Hình thành các Quỹ KH&CN của tư nhân, cho phép sử dụng nguồn lực con người trong Viện/trường nghiên cứu công lập, làm việc theo đặt hàng của doanh nghiệp theo hợp đồng, đảm bảo quyền lợi của nhà khoa học, giảm rủi ro cho ngân sách nhà nước, tăng vai trò/sự tham gia của tư nhân phát triển KH, CN và ĐMST.
3. Kết luận
Đổi mới cơ chế cho hoạt động KH, CN và ĐMST, đặc biệt là cơ chế tài chính, là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm thúc đẩy phát triển KH&CN, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên vươn mình hiện nay. Nhà nước xác định đầu tư cho KH, CN và ĐMST trong dài hạn và có ý nghĩa lâu dài, vì thế cần phải chấp nhận rủi ro trong NCKH, tin tưởng vào đội ngũ nhà khoa học, tính toán hiệu quả hoạt động KH, CN và ĐMST dựa trên giá trị bền vững, giá trị thực tiễn giải quyết những bài toán đặt ra từ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, sáng tạo ra giá trị tiên phong và dẫn dắt xã hội chứ không phải chỉ bó trong phạm vi hạn hẹp là nghiệm thu, quyết toán với ngân sách nhà nước.
Tài liệu tham khảo
Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2013), Luật khoa học và công nghệ
(Luật số 29/2013/QH13).Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2015), Luật Ngân sách nhà nước
(Luật số 83/2015/QH15).Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2017), Luật Chuyển giao công nghệ (Luật số 07/2017/QH14).
Văn phòng Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (2022), Văn bản hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ (Văn bản số 11/VBHN-VPQH ngày 08/07/2022)
Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam (2014), Nghị định số 08/2014/NĐ-CP ngày 27/01/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khoa học và công nghệ.
Thông tư số 02/2023/TT-BKHCN ngày 08/05/2023 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn một số nội dung chuyên môn phục vụ công tác xây dựng dự toán thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước.
Thông tư số 03/2023/TT-BTC ngày 10/01/2023 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định lập dự toán, quản lý sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 30/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định khoán chi thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước.
>>> Nguồn Báo Nhân dân
GS.TS Lê Quân, Giám đốc ĐHQGHN
CÁC TIN KHÁC